Thursday, November 30, 2006

Xuat Cang Dan Chu

Hoa Kỳ đã đưa ra ba nguyên nhân để giải thích cho sự xâm chiếm Iraq: thứ nhất, để tìm và diệt vũ khí hủy diệt hàng loạt [1] (WMD); thứ nhì, để chấm dứt liên hệ và ủng hộ của chính quyền Saddam Hussein với các phần tử khủng bố; và thứ ba, để xây dựng một chế độ dân chủ, tự do tại Trung Đông.

Sau hai năm Hoa Kỳ rốt cuộc phải công nhận là không tìm được WMD. Nếu có nhiều người nghĩ nguyên nhân thứ nhất bắt đầu từ những sai lầm, thiếu sót của tình báo Hoa Kỳ thì cũng không ít người cho nguyên nhân thứ hai là một luận điệu giả dối vì cho đến bây giờ chính quyền Hoa Kỳ vẫn chưa chứng minh được sự liên hệ giữa Saddam Hussein và tập đoàn Osama Bin Laden.

Còn nguyên nhân thứ ba? Hoa Kỳ có xâm chiếm Iraq để “xuất cảng” và áp đặt nền dân chủ của Hoa Kỳ tại Trung Đông hay không? Hoa Kỳ sẽ thành công hay không? Hay đây cũng chỉ là một lý do gượng ép và một hy vọng hão huyền?

Bài viết này sẽ không nhằm trả lời các câu hỏi trên. Nó cũng không có mục tiêu giải thích hoặc biện minh cho chính sách của Hoa Kỳ tại Iraq. Người viết chỉ mong góp một phần suy luận nhỏ cho câu hỏi: “Dân chủ có cần, có thể, hoặc có nên, được xuất cảng hoặc áp đặt hay không?”

Trong khi nhân quyền được chấp nhận như một giá trị toàn cầu, dân chủ thường không được công nhận như là một hình thức chính phủ thích hợp nhất cho mọi người trên thế giới. Dân chủ không phải chỉ có trong lịch sử Tây Âu, nó không xa lạ với châu Á và châu Phi. Tại Ấn Độ, Nhật Bản và các nước tại châu Phi, nền dân chủ đã có qua nhiều thế kỉ. Tuy nhiên, văn hóa, tín ngưỡng cổ truyền, và dân trí không nhiều thì ít đều có ảnh hưởng đến việc thiết lập một nền dân chủ thích hợp cho một quốc gia. Nên chọn nền dân chủ nào? Dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp (dân chủ đại diện), dân chủ tham gia? v.v…

Dù bất cứ hình thức nào, dân chủ có thể được đâm chồi và phát triển mà không nhất thiết cần có sự tác động trực tiếp từ phía ngoài. Nam Hàn tự chuyển từ chế độ độc tài sang dân chủ mà không cần sự thúc đẩy đáng kể nào của ngoại bang (mặc dù có sự hiện diện của lính Hoa Kỳ trên lãnh thổ). Nền dân chủ tại Thái Lan và Indonesia tuy không hoàn hảo nhưng có thể xem là khá vững chãi mà không có sự áp đặt của Hoa Kỳ. Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hy Lạp tuy có hậu thuẫn từ môi trường châu Âu nhưng nhìn chung thì các quốc gia này tự tìm cho mình một chế độ dân chủ. Nam Phi chọn chế độ dân chủ dưới sức ép của cộng đồng thương mãi và chính sách cấm vận của các quốc gia tự do. Ngược lại, tại Trung và Đông Âu, nhờ vào sự không can thiệp của Nga Sô mà nền dân chủ có thể phát sinh và tồn tại.

Thế thì cộng đồng quốc tế có nên áp dụng chính sách “đèn nhà ai nấy sáng”, tránh can thiệp vào nội bộ của các quốc gia độc tài, tránh xung đột, mâu thuẫn chăng?

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ đã áp dụng chính sách “hòa hoãn" để đạt và giữ vững quan hệ bang giao với các nước cộng sản. Thậm chí chính sách này còn được đa số chính trị gia Hoa Kỳ ưa chuộng, xem như là thượng sách. Cổ động mạnh nhất cho chính sách này là Henry Kissinger, một người theo thuyết “thực tiễn”[3] từ thời Nixon. Việc đầu tiên của các “thực tiễn gia” là tách rời chánh sách bảo vệ quyền lợi quốc gia ra khỏi phạm trù đạo lý. Vì vậy, Kissinger đã không ngần ngại phản bội đồng minh Việt Nam sau khi bắt tay được với kẻ thù Trung Quốc. Để bảo đảm cho quyền lợi quốc gia, Hoa Kỳ sẵn sàng gầy dựng và ủng hộ các chính phủ độc tài. Điển hình là Hoa Kỳ đã từng ủng hộ chính quyền của Augusto Pinochet, Omar Khadafi, Ferdinand Marcos. Ngay chính Saddam Hussein cũng do Hoa Kỳ dựng lên.

Chính sách “hòa hoãn” này đã và đang được áp dụng trong suốt hơn 20 năm qua. Triết lý “độc tài cũng được, miễn sao độc tài theo ta và của ta” xem ra khá hữu hiệu. Mọi việc đều được xem là khá êm đẹp, ít nhất là cho đến ngày 11 tháng 9 năm 2001.

Trong số 19 tên khủng bố, 15 tên có quốc tịch A Rập Saudi. Nhiều thành viên Al-Qaeda và chính Osama Bin Laden là người A Rập Saudi. Tuy vậy, giả thuyết cho rằng Hoa Kỳ đã nhắm mắt làm ngơ cho các chế độ độc tài tại A Rập Saudi, Pakistan, Afghanistan, tạo môi trường sinh sản và nuôi dưỡng quân khủng bố vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi. Vì vậy, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đầy những mâu thuẫn. Tuy tổng thống Bush viện dẫn lý do xây dựng nền dân chủ tại Trung Đông là một mục đích xâm chiếm Iraq, bộ ngoại giao Hoa Kỳ vẫn tránh trừng phạt A Rập Saudi mặc dù đã liệt kê nước này vào danh sách các quốc gia cần quan tâm vì vi phạm tự do tôn giáo. Trong lúc tổng thống Bush tuyên bố: “Xây dựng một Iraq tự do là một cơ hội lịch sử để thay đổi thế giới”[4] thì tờ New York Times xem việc xây dựng một chế độ dân chủ tại Iraq là một “mơ ước trẻ con”. Một thượng nghị sĩ tại Kansas còn nói: “Không thể đặt tự do xuống như trải thảm được”.[5]

Thật ra, Hoa Kỳ không cần phải xuất cảng dân chủ. Hoa Kỳ càng không cần phải áp đặt dân chủ bằng máy bay, xe tăng hay súng đạn. Hoa Kỳ chỉ cần ủng hộ cho tự do và tạo điều kiện cho nền dân chủ được tự phát triển. Nói một cách khác, Hoa Kỳ chỉ cần bảo vệ, giúp đỡ các chiến sĩ tranh đấu cho tự do, nhân quyền trên khắp thế giới để chính những người ấy tự xây dựng cho dân của họ một nền dân chủ thích hợp.

Dân chủ không đồng nghĩa với tự do bầu cử. Thật vậy, bầu cử tự do phải là mục đích cuối cùng thay vì là bước đầu tiên của công cuộc xây dựng một nền dân chủ. Hấp tấp đòi hỏi tự do bầu cử tại các quốc gia quen sống dưới chế độ độc tài chẳng khác gì muốn đặt một cái nóc nặng nề trên một cái sườn nhà lỏng lẻo. Xã hội dân chủ phải được xây dựng bằng cách thay thế sự sợ hãi bằng không khí tự do, nơi mà các quyền tự do căn bản của người dân được bảo vệ. Trong mọi hoàn cảnh, khi con người có được sự lựa chọn, lúc nào họ cũng chọn tự do thay cho chuyên chế, dân chủ thay cho độc tài, pháp trị thay cho pháp quyền.

Trước đe dọa của khủng bố, các quốc gia tự do đều nhận thấy rằng sự khác biệt giữa thế giới tự do và thế giới sợ hãi quan trọng nhiều hơn là sự khác biệt của các chính sách ngoại giao. Vì vậy, mặt trận đối lập giữa tư bản và cộng sản đang được thay thế bằng mặt trận đối lập giữa dân chủ và độc tài. Thay vì trực tiếp áp đặt nền dân chủ, Hoa Kỳ và các chính phủ tự do trên thế giới phải ràng buộc chính sách ngoại giao của quốc gia họ với tiến trình dân chủ của các nước độc tài. Các yếu tố phát triển dân chủ (quyền tự do ngôn luận, báo chí, quyền tự do xuất ngoại, quyền tự do lập hội, v.v…) cần phải được gắn liền với quyền lợi mà các quốc gia độc tài muốn hưởng.

Bài học Helsinki cho thấy rằng khi sự đòi hỏi tôn trọng nhân quyền được hỗ trợ bằng các chính sách hữu hiệu, tự do và hòa bình sẽ được phát triển. Trong trường hợp Helsinki, Sô Viết đã phải lựa chọn một là tôn trọng nhân quyền, hai là mất cơ hội và quyền lợi làm việc với thế giới tự do. Vì vậy, các thỏa thuận tại Helsinki, tuy lúc đầu bị xem là những lời hứa suông, lại trở thành những quyết định tối quan trọng trong cuộc chiến tranh lạnh.[6]

Chính quyền Hoa Kỳ biết rằng họ không thể chờ đợi các chính quyền độc tài tự nguyện từ bỏ quyền lực cai trị. Ngược lại, Hoa Kỳ cũng không thể đợi chờ sự đồng tình của mọi quốc gia trên thế giới. Để chứng minh rằng cuộc chiến Iraq không bắt nguồn từ quyền lợi vị kỷ của quốc gia, Hoa Kỳ cần có một chính sách ủng hộ dân chủ và nhân quyền trước sau như một.

10/30/2005


[1] Weapon of mass destruction

[2] détente

[3] realist

[4] “An historic opportunity to change the world” – Primetime Press Conference, 13 tháng 4. 2004

[5] Natan Sharansky & Ron Dermer: The Case for Democracy – The Power of Freedom to Overcome Tyranny and Terror. Public Affairs, New York, 2004

[6] Ibid

Random Thoughts on Win-Win


Contrary to popular believes, in many negotiations, there need not be winners and losers. All parties can gain. Granted that how much each party can gain from the negotiation depends on how well prepared or how “good” the negotiators are, there should not be a need for the parties to walk away from the deal feeling like losers. Integrative negotiation, also known as cooperative, collaborative, win-win, mutual gains, or problem solving – is a negotiation philosophy that seeks to “expand the pie” to allow for satisfaction from the deals.

The major differences between win-win and win-lose philosophy are based on the immediate substantive outcomes of the negotiation in relation to the long term relationship between the parties. Indeed, while the parties in a win-lose negotiation use all of their tactics to gain the “upper hand”, they completely disregard the possibility of dealing with each other again the in the future (buying a car, price-haggling in an open market, etc.). One would tend to choose a win/lose negotiation strategy if one only wants to get the “best single deal”, completely disregard of the other party’s goals, aspirations and the importance of future relationships.

At the opposite of the win/lose philosophy is the win/win philosophy. As mentioned, a win-win philosophy recognizes that the goals of the parties are not mutually exclusive – i.e. each party wants the best deal possible for themselves. One party’s gain is not necessarily at the other party’s expense. A win-win philosophy and strategy is crucial for negotiations among parties who look to establish a long-term relationship (supply-demand, prime – sub contractors, friends and family, compatriots, etc.)

As we compare the two philosophies, we immediately recognize that a win-win strategy is more difficult and hence takes more “brain cells” to formulate and execute. No doubt that it would take a great deal of flexibility, creativity and teamwork from both sides of the negotiating table to achieve common, collective or compatible goals.

Let’s take it a step further and ask the question of whether the two philosophies are mutual exclusive or can they co-exist in certain conditions. Are there situations that allow both strategies? The answers will have to depend on the conditions of the deals; which in turns dictate the causal relationship of the two parties. My contention is that one can start off with an integrative strategy and later switch to a distributive strategy. A reversal of orders however will not work. The risk of first implementing a distributive strategy – hence, using all available tactics to get the best deals – before the integrative strategy is too high. Not only does this send a mix/confusing signals to the other party, it is one sure way to establish mistrust and destroy the relationship.

The Vietnamese government is now implementing a “glasnost” policy of opening up and trying to solicit help from the Vietnamese American professional community. “Getting to Yes” with the Vietnamese government is still as difficult and tricky as can be. Obstacles and drawbacks from this method of negotiating abound. So what are the obstacles?

The lack or willingness to exchange information:

At the heart of a win-win negotiation is the willingness to share information on the below-the-surface interests and needs. Why one wants something is often more important than what one wants. The Vietnamese government wants to control access to all information flowing out and coming in to the country, but why do they want that? Unless the negotiating party admits to their needs, desires or fears that dictate their positions, the objectives – not matter how clearly defined – are extremely limited. The Vietnamese officials want to control information because they fear the proliferation of democracy and hence weaken their grip on power. However, unless they are willing to get to the core issues, we can not explore alternatives to the solutions.

Cannot separate the people from the problem:

Not less important is the issue of trust among the parties. Unless there is trust, people will continue to be reserved and wary of each other. Their behaviors will be contradictory to what they say. They can agree to a win-win strategy but they will instead implement win-lose tactics. They can use their power to bully the other team, or use psychological warfare or deceptive tactics to get what they way. Obviously, there is a deep mistrust between the Vietnamese-American community and the Vietnamese government. It is fair to say that the Vietnamese-American community “has been burnt” too many times and hence they view the actions from the government as some form of trickeries.

As cliché as it sounds, “trust has to be earn” and can not be demanded. Parties need to architect a plan of action that consists of small, specific and measurable actions that will demonstrate their good wills. More importantly, at the first steps to negotiation, is the need to separate the issues from the people. De-personalization of the problems is a crucial prerequisite to the negotiation success.

Cannot identify and define the Problems without assigning blames:

Parties need to define the problems based on interests and not positions. Opening a negotiation with statement like: “These problems arise because you have done the followings ….” is a bad start. There should not be an assignment of blame in our goals. The problems will need to be recognized as mutual and without “ownerships”. To “own the problem” is to be responsible and possibly be the cause of the problem.

The parties will need to explore the solutions of the problems together. They should not get stuck with the obvious solutions. Instead they need to brainstorm and be creative in finding all solutions without being judgmental. Once the list of possible solution is exhaustive, they can review and choose the most appropriate solution to implement. There is a need to invent options for mutual gains.

Cannot define objective criteria:

Parties need to define ways to rank and weigh each option. Without clearly defined objectives, parties can not be clear on what options to take. Be alert to the intangibles options; invent ways to logroll solutions and expectations, risk and time preferences.

Our struggle for a democratic and prosperous Vietnam is long and arduous and a Win-Win negotiation strategy is but an enabler, a precatory method to engage. We should not be dilatory to engage in further exploring such strategy and tactics; however, neither should we be the “pollyannas” about the willingness and the motives of the other side. Hence, we need to recognize a Win-Win strategy for what it is and what it is not. Specifically, it is merely a tool and not a panacea to all problems.

Hy Vọng Không Phải Là Kế Hoạch

Tôi thường nghe các bậc trưởng thượng đặt câu hỏi: “Rồi đây tuổi trẻ Vietnam hải ngoại sẽ có vai trò gì trong công cuộc xây dựng đất nước? “

Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần thử nhận xét tâm lý của tuổi trẻ hải ngoại. Câu hỏi đầu tiên cần được đặt ra là họ có còn tha thiết đến Việt Nam? Và nếu còn, thì các yếu tố nào sẽ thúc đẩy hoặc ngăn chận họ dấn thân đóng góp?

Chúng ta cần nhìn thẳng vào vấn đề, mặc dù nhiều lúc sự thật không theo ý mình muốn.

A. Tư tưởng – đa số lớp trẻ lớn lên tại hải ngoại không còn tha thiết nhiều đến Việt Nam, và càng không có khái niệm rõ ràng về tự do, dân chủ.

Thế hệ sanh ở thập niên 1960 - 1970, bây giờ đã hơn 30, 40 tuổi. Họ không còn trẻ nữa. Thế hệ này, chúng ta tạm gọi là “thế hệ một rưởi”, là thành phần còn nhiều liên hệ đến VN nhất. Tuy có một số ít tham gia hội đoàn nhưng sinh hoạt thường nặng về văn hóa, âm nhạc; và một số ít khác tham gia hoạt động chính trị.

Thế hệ sanh từ 70 – 80 lại càng ít hoạt động. Họ chăm chú đi học và đi làm để tạo cho mình một tưong lai vững chắc. Phần đông thế hệ này hội nhập vào đời sống nơi mình ở tương đối nhanh và nói thành thạo tiếng bản xứ. Tuy nhiên họ vẫn còn đọc và viết được tiếng Việt. Một số rất ít tham gia hoạt động chính trị.

Thế hệ sanh từ năm 80 tại hải ngoại, phần đông không nói và đọc được tiếng Việt, và không còn nghĩ mình là người Việt Nam nữa.

B. Phương pháp - các phương pháp tranh đấu cho Vietnam thường thụ động, đối chọi nhau.

Sự phóng khoáng của tuổi trẻ không đủ mạnh để ngăn chận mầm mống chia rẽ trong các thành phần chịu hoạt động. Họ chia phe theo ba nhóm và có ba chủ trương khá rõ rệt:

Chủ trương ưu tiên phát triễn kinh tế: Các bạn trong nhóm này tin rằng Vietnam tuy chưa có “đủ” tự do, dân chủ, nhưng việc trước hết là phải ủng hộ phát triển kinh tế để nâng cao đời sống người dân. Họ hoạt động thầm lặng nên khó đo lường được thực lực. Cũng có khi họ chấp nhận lý thuyết được đưa ra bởi các bạn trẻ ở quốc nội là nước nhà cần một đảng duy nhất để bảo đảm trật tự an ninh cho đất nước và phát triển đời sống người dân. Họ lý luận rằng càng có nhiều đảng thì càng có nhiều tranh chấp, hỗn loạn.

Vã lại, một số bạn tin rằng phát triển kinh tế rất cần thiết cho một xã hội dân sự mạnh, và nó là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tự do, dân chủ. Từ từ rồi cũng có tự do. Hơi đâu mà lo. Hãy hy vọng!

Nhóm này được sự thông cảm của thành phần trẻ trong nước nhất!

Chủ trương ưu tiên dân chủ, tự do – Nhóm này tương đối được biết đến nhiều nhất. Các vận động của họ càng ngày càng hửu hiệu hơn, phát triển từ các cuộc biểu tình ồn ào trong quá khứ đến kế hoạch hóa các cuộc vận động trong chính trường tại các quốc gia cư ngụ. Họ tạo ra một sức đối kháng cần thiết, và họ đã khá thành công trong cuộc vận động nàỵ Điển hình như chiến dịch Cờ Vàng, Vùng Không Cộng Sản. Họ tích cực vận động với bộ ngoại giao, với các cơ quan bảo vệ nhân quyền quốc tế và chính quyền địa phuơng để làm nổi bật vấn đề nhân quyền tại Việt Nam.

Nếu được hỏi “Như thế có đủ đem tự do, dân chủ đến cho Vietnam không? ", họ sẽ trả lời “Có thể không đủ, nhưng đó là cách vận động hữu hiệu nhất" Hãy hy vọng!

Chủ trương ưu tiên bảo tồn văn hóa - Nhóm này đặt biệt chủ trương tạo hoạt động duy trì văn hóa dân tộc qua các tổ chức trại hè, nhạc thính vòng, chiếu phim ảnh Việt Nam. Đa số tránh hoạt động chính trị và rất thận trọng vì sợ tai tiếng, chụp mủ. Họ cố giữ cho mình được “trong sáng”, tránh liên lụy vào các tranh cãi mà họ cho là vô ích.

Một số tin rằng khuynh hướng dân chủ có giá trị toàn cầu. Rồi đây thời thế sẽ đẩy đưa nước nhà đạt được tự do, dân chủ. Hãy hy vọng!

Nhóm 1 và 2 thường không làm việc với nhau. Không ít thì nhiều, họ bị ảnh hưởng từ các bậc cha anh. Cũng có lúc họ âu yếm gọi nhau “phe cực đoan”, “phe thân cộng.”

Chúng ta cần phải nhìn nhận là tại hải ngoại ta không có một kế hoạch hoặc chương trình nào có thể kết hợp ba nhóm. Ở đây tôi không muốn nói đến nhu cầu kết hợp tập trung; tôi muốn nói một chính sách toàn diện đưa đến sự kết hợp giữa các thành phần.

Trong lúc chính quyền Việt Nam mới vừa cho ra một chính sách rõ ràng để “cảm hóa” và thu hút tài năng của các thành phần trẻ tại hải ngoại, thì chúng ta thờ ơ, để mặc cho các nhóm trẻ hoạt động riêng rẻ, rời rạc, theo tiềm thức. Các tiềm thức này, không ít thì nhiều, cũng bị ảnh hưởng bởi sự tranh chấp phe nhóm của các thế hệ đàng anh.

Mẩu số chung của ba nhóm trên là họ còn tha thiết đến Việt Nam. Nếu thoạt nhìn, chúng ta nghĩ là họ có nhiều mâu thuẩn và có khi còn đối chọi với nhau. Nhưng dưới cái nhìn lạc quan thì giữa các nhóm chỉ có khoảng cách trong tư tưởng và hành động. Những chỗ trống này có thể và cần phải được lấp đầy để họ có thể đoàn kết, sánh vai làm việc với nhau.

Muốn được vậy chúng ta cần có một kế hoạch toàn diện, các bạn trẻ cần nhận thức được là sự phát triển kinh tế tự nó không đem đến tự do dân chủ. Vì vậy, các bạn cần có cơ hội thảo luận để hiểu nhau và tìm ra được các yếu tố thuận lợi đưa đến dân chủ cho Việt Nam. Và kế đến là làm sao phát huy được các yếu tố này.

Các bạn sẽ nhận thấy việc tranh đấu cho Việt Nam được dân chủ là một hành trình leo núi dài, gian nan, và cần nhiều sức bền bỉ. Các phương pháp vận động của các nhóm, tuy khác nhau, nhưng nó cũng như nhiều đường mòn lên núi, đều đưa đến một đỉnh duy nhất. Chỉ khi nào các bạn nhận ra và đồng ý với nhau về một mục đích chung, hiểu và thông cảm (tuy không nhất thiết phải đồng ý) đường lối làm việc của nhau, thì các bạn ấy mới tránh được sự chia rẽ, đánh phá, hoặc đội những cái mũ “Thiên tả, thiên hữu, hoặc hòa hợp, hoà giải” cho nhau.

Nếu không được vậy, thì chúng ta chỉ còn tin vào niềm hy vọng. Hy vọng các bạn sẽ không bị chia rẽ, hy vọng lòng yêu nước của các bạn sẽ không bị nguội lạnh, hy vọng các bạn sẽ không bị mất gốc, hy vọng rồi đây chúng ta sẽ thành công trong việc tranh đấu đòi dân chủ, tự do thật sự cho người dân Việt.

Tuy nhiên, chắc bất cứ ai trong chúng ta đều đồng ý, hy vọng không phải là một kế hoạch đưa đến thành công.


Hà Tam Anh

Khong Giao va Gia Tri A Chau

Tôi chỉ làm việc ở Seoul hai tuần nhưng được chứng kiến đến 5 cuộc biểu tình! Cứ 2, 3 ngày lại có một cuộc biểu tình. Họ chống đủ thứ: chống nhập cảng gạo từ Tàu, chống Bắc Hàn, chống Nhật. Khi chánh phủ làm luật thi lấy bằng buôn bán địa ốc khó quá, họ cũng chống. Đòi thi lại!

Nam Hàn là một nước nặng tinh thần Khổng giáo. Họ lại có niềm tự hào dân tộc khá mạnh, và rất gắn bó với gia đình. Đây là ba yếu tố được các nhà xã hội học gộp chung lại và đặt cho một cái tên khá kêu: “Giá trị Á châu” - một giá trị thường được dẫn chứng rằng không thích hợp cho sự phát triển của nền dân chủ, tự do.

Những quốc gia được (hay là bị?) ảnh hưởng của Giá trị Á châu phải kể tới là: Trung Hoa, Đài Loan, Việt Nam, Singapore, Nam Hàn, Bắc Hàn, và Nhật. Trong số 7 nước này thì Nhật, Nam Hàn, và Đài Loan được kể là có dân chủ, trong lúc Bắc Hàn, Trung Hoa, Việt Nam, và Singapore thì bị liệt kê là độc tài.[1] Như vậy, với tỉ số 3/7, chúng ta có thể kết luận gì về sự tương quan giữa “Giá trị Á châu”, Khổng giáo và nền tự do dân chủ?

Giáo Sư Samuel Huntington trong bài “Xung đột của các nền văn hóa và sự tái lập trật tự thế giới” tuyên bố rằng: “Truyền thống của Khổng giáo, vì nó đặt nặng uy quyền, trật tự, lề lớp, và quyền lợi của số đông trên số ít, thường tạo nhiều cản trở cho tiến trình dân chủ hóa.”[2]

Ông Lý Quang Diệu cũng dùng lý luận này khi du thuyết khắp nơi. Ông cho rằng nền dân chủ Tây phương sẽ làm cho nền kinh tế trì trệ và tạo bất ổn chính trị tại Á châu. Vì vậy, Á châu phải có một nền dân chủ riêng của nó – một nền dân chủ giới hạn, cứng rắn hơn của Tây Âu. Hay nói một cách khác, ông đề nghị thay dân chủ “cứng” bằng độc tài “mềm”. Thật ra thì ông Lý Quang Diệu chỉ dùng Giá trị Á châu để làm một cái cớ chống lại sự xâm lấn của nền văn hóa Tây phương mà thôi. Chả vậy mà có lần ông đã phạm freudian slip khi cãi rằng: “Singapore không phải là một tiểu bang xa của Mỹ”.[3] Ông đã không đưa ra được một bằng chứng nào cho giả thuyết Giá trị Á châu không thích hợp cho tự do, dân chủ cả.

Tuy không viết vào cuốn tự điển nào cái định nghĩa của “độc tài mềm”, ông Lý Quang Diệu cho rằng nền dân chủ Á châu phải dựa trên sự đồng lòng, nhất trí, và tin tưởng vào một chánh phủ “tốt”. Một chánh phủ “tốt” phải có đạo đức, biết lo cho dân có cơm ăn, áo mặc, giữ gìn trật tự xã hội, và thuần phong, mỹ tục.

Đồng ý tất! Nhưng vấn đề ở đây là dân chủ Á châu nó khác dân chủ Tây Âu chỗ nào? Có thật là các Giá trị Á châu và Khổng giáo không thích hợp cho tự do dân chủ và dân quyền - bất kể Âu hay Á - không?

Truớc khi ta tìm câu trả lời, xin hảy khảo sát câu hỏi. Khi người ta đặt vấn đề là Giá trị Á châu và Khổng giáo có thích hợp với dân chủ, tự do, và dân quyền hay không thì họ đã đưa ra cái giả thuyết là Giá trị Á châu và Khổng giáo tự nó đã không có phần dân chủ, tự do rồi. Không lẽ dân Á châu lạc hậu vậy sao? Như vậy tại sao Nhật, Nam Hàn, Đài Loan (xin được gọi vắn tắt là “Tam Quốc Tự”[4]) có tự do dân chủ. Không lẽ dân của 3 nước này tiến bộ hơn dân của 4 nước Trung Hoa, Việt Nam, Bắc Hàn và Singapore? (xin được gọi vắn tắt là “Tứ Quốc Độc”.[5])

Chánh phủ “tốt” phải biết lo cho dân có cơm no, áo ấm ư? Không những “Tam Quốc Tự” đã thành các con hổ kinh tế, họ còn có một chánh phủ vững chắc được xây dựng trên nền dân chủ khá hoàn hảo với các cuộc bầu cử thường xuyên, pháp quyền rõ rệt, và xã hội dân sự phát triển mạnh.

Tuy vậy, nhìn một cách khách quan thì ít người có thể kết luận được là có một sự tương quan mật thiết giữa nền dân chủ tự do và sự phát triển kinh tế. Chúng ta cũng không thể nói rằng Trung Hoa phát triển kinh tế nhanh hơn Ấn Độ, Nga, và Jamaica nhờ chế độ độc tài. Cái bẫy dễ mắc ở đây là ta nhìn vào hiện tại để rút kết luận từ thành quả đạt được trong quá khứ.

Vì trong cái lý luận này đã có cái sai. Trung Hoa chỉ phát triển sau khi họ từ bỏ nền kinh tế tập trung. Không có gì xác minh rằng các chế độ độc tài, với sự đàn áp nhân quyền, có thể đem lại sự tiến triển kinh tế một cách lâu dài. Ta không nên chỉ dựa vào các thống kê trong một vài năm gần đây mà cần quan sát quá trình phát triển lâu dài của cả thế giới.

Thật vậy, công nghiệp tuy thường bắt đầu từ trong các xã hội có chế độ độc tài, nhưng rốt cuộc cũng phải đi song song với dân chủ nếu không muốn bị tắc nghẽn. Nga Sô và các nước cộng sản Đông Âu rồi cũng sụp đổ khi chịu không nổi sức ép của tự do. Trường hợp này đã xảy ra ở các nước như Nam Phi và Nam Dương. Vì vậy sự phát triển kinh tế của Trung Hoa và Việt Nam có tính cách tạm thời, chỉ có hiệu quả trong giai đoạn chuyển tiếp khi thay đổi chánh sách từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường.

Nhờ chọn nền kinh tế thị trường của Tây Âu nên Singapore mới phát triển nhanh chóng. Với dân số chỉ hơn 4.3 triệu trên diện tích chưa đầy 700 km2, Singapore giống một thành phố lớn hơn là một quốc gia[6]. Vì vậy, cho dù rất muốn, các nước độc tài Á châu cũng dư biết rằng họ không thể áp dụng mô hình độc đảng của Singapore trên nước mình.

Trong thời đại toàn cầu hóa hiện tại, Singapore sẽ phải tiếp tục đương đầu với các luồng sóng tự do thông tin và không thể không chọn tự do dân chủ nếu muốn tiếp tục cạnh tranh với các quốc gia trên thế giới.

Như vậy thì yếu tố nào có lợi cho nền phát triển kinh tế lâu dài?

Qua các nghiên cứu, các kinh tế gia đã đi đến một quan sát chung là muốn tiếp tục cho kinh tế phát triển cần phải có cạnh tranh tự do, phải chú trọng vào thị trường quốc tế, và nền dân trí phải được nâng cao.

Những yếu tố này tuyệt đối không đi ngược lại các đặc tính của tự do dân chủ. Nó lại càng không có liên quan gì đến Giá trị Á châu và tinh thần Khổng giáo.

Hay là Khổng giáo có nhiều tính chất độc đoán hơn các nền văn hóa khác? Khổng giáo có quá khắt khe so với Cơ Đốc giáo hoặc Hồi giáo không?

Có lẽ câu hỏi thích hợp hơn là: những điều kiện, yếu tố thích hợp cho tự do dân chủ có thiếu trong tinh thần Khổng giáo không? Có thật là lý tưởng tự do và nhân quyền trong một xã hội khoan dung là ý niệm Tây Âu và, vì một lý do gì đó, rất xa lạ với Khổng giáo không?

Tuy câu “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” thường được nghe trong các truyện Tàu, Khổng giáo không xem thường và bắt dân đen phải tuyệt đối trung thành với vua. Ngược lại Khổng giáo từ xưa đã đặt ý dân trên tất cả - “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”- “Ý dân là ý Trời"…

Không những vậy, Khổng giáo lại có một yếu tố rất thuận lợi cho nền dân chủ. Khổng giáo chú trọng việc học (Nhất sĩ, nhì nông, tam công, tứ thương). Học vấn là yếu tố quan trọng để nâng cao dân trí, và tạo thêm thành phần trí thức. Tuy dân trí ít được nêu ra như một điều kiện cho sự phát triển dân chủ, học vấn giúp người dân thêm sự hiểu biết để tham gia các cuộc thảo luận chánh trị. Vả lại, chỉ khi người dân không phải lo chạy cơm hàng ngày, họ mới có được thời giờ (và sức lực) để đòi hỏi thêm quyền tự trị. Thành phần trí thức này giúp tạo nên nên một xã hội dân sự cần thiết cho nền dân chủ, tự do.

Các nước trong “Tứ Quốc Độc” không phải là không biết vấn đề then chốt đó. Vì vậy họ lúng túng, không biết làm sao phát triển dân trí để theo kịp kinh tế mà vẫn giữ được quyền độc đảng. Một mặt thì họ cho lớp trẻ đi “tu nghiệp”, một mặt thì họ dựng “tường lửa” để phòng “cháy tư tưởng Đảng và nhà nước.”

Hồ Chí Minh nói: “Khó trăm lần, không dân cũng chịu, khó vạn lần, dân liệu cũng xong". Nhưng Đảng Cộng sản đặt mình trên cả dân vì họ cho là họ “anh minh, sáng suốt” hơn dân. Họ bảo rằng dân không biết rõ, chỉ có Đảng mới biết rõ. Vì vậy “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” nhưng chỉ có Đảng Cộng sản và nhà nước lãnh đạo là có quyền tối hậu quyết định mọi vấn đề. Chỉ có Đảng mới lo được cho toàn dân ấm no, chỉ có Đảng mới giữ gìn được tôn ti, trật tự. Chỉ có Đảng mới bảo đảm được quyền lợi chung cho toàn dân.

Bà Aung San Suu Kyi một lần đã đặt câu hỏi mỉa mai: “Hay là dân tôi thiếu khả năng tiếp nhận nền dân chủ; và vì vậy, cần phải trải qua một thời gian bất hạn định trước khi thật sự có tự do dân chủ?”[7]

Vậy có phải Khổng giáo và Giá trị Á châu đã làm dân tôi ngu đần không?

Đầu Xuân Ất Dậu


[1] Reporters Without Borders, web site http://www.rsf.org/article.php3?id_article=11715
[2] Sammuel P. Huntington, The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order (New York: Touchstone, 1996)
[3] Amartya Sen, Human Rights and Asian Values: What Lee Kuan Yew and Le Peng don't understand about Asia.
[4] Tam Quốc Tự = 3 nước tự do.
[5] Tứ Quốc Độc = 4 nước độc tài
[6] CIA factbook, http://www.cia.gov/cia/publications/factbook/geos/sn.html
[7] Aung San Suu Kyi, Transcending the Clash of Cultures