Monday, December 11, 2006

NHẬN XÉT LẠI NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ XÃ HỘI DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM

Chiến tranh lạnh chấm dứt. Mỹ và các nước tự do thoạt đầu đặt nhiều hy vọng vào tiến trình bành trướng của nền dân chủ toàn cầu. Hàng loạt các nước cộng sản từ bỏ cái chủ nghĩa mà họ đã tốn bao nhiêu xương máu bảo vệ, mở màn cho đợt sụp đổ của các chính quyền toàn trị. Nhưng sự lật ngã của các mảnh domino Nga Sô, Đông Đức, Ba Lan và Tiệp Khắc đã không đủ ảnh hưởng tới Trung Quốc, Việt Nam, Cuba và Bắc Hàn như mọi người mong đợi. Đối với các nước ngoan cố giữ vững chế độ độc tài này, ngưòi ta chỉ còn đặt kỳ vọng vào phong trào tiến hóa giai đoạn, song song với sự phát triển kinh tế, mở rộng thông tin, và xây dựng nền móng xã hội dân sự để làm môi trường cho tự do, dân chủ.

Tại những nước cộng sản còn lại, các cuộc biểu tình bài tỏ phô trương ước vọng tự do của người dân được chính quyền Mỹ đặcbiệt chú ý. Trong thế kỷ 20, các cuộc biểu tình đòi quyền bình đẳng cho người da đen, cho phụ nữ, các phong trào bảo vệ môi trường, v.v.. thường bắt rễ từ các tổ chức phi chính phủ (Non-Governmental Organizations) . Cách nhìn xã hội dân sự như một xúc tác cho các thay đổi chính sách của một quốc gia đã được người Mỹ công nhận và xem như chuyện hiển nhiên. Vì vậy, tuy không nói ra, nhưng chính quyền Mỹ cũng ngầm mong là xã hội dân sự tại các nước độc tài sẽ tạo môi trường thuận lợi cho tự dodân chủ phát triển.

Nhưng xã hội dân sự là gì? Việt Nam có xã hội dân sự không và nó đóng vai trò gì trong tiến trình tự do hóa và dân chủ hóa đất nước?

Định nghĩa của xã hội dân sự thay đổi tùy theo chiều rộng hoặc chiều dài của từ ngữ. Ở cái nhìn rộng nhất, xã hội dân sự bao gồm mọi nhóm và mọi hoạt động không bị ràng buộc bởi chính quyền: các hội kinh doanh, các tổ chức tôn giáo, tổ chức chính trị, tổ chức truyền thông, báo chí tư nhân, hội từ thiện, câu lạc bộ, v.v.. Riêng hoặc chung, tất cả các tổ chức này đều góp phần giúp phát triển đặc tính đa nguyên của xã hội và ảnh hưởng đến quan hệ của xã hội và chính quyền.

Vì chính quyền Việt Nam lúc nào cũng tìm cách dập tắt các tổ chức chính trị, bài viết này sẽ chỉ dùng một phần định nghĩa của xã hội dân sự để chú trọng vào các tổ chức thiện nguyện, phi chính trị, có thể phát triển được tại Việt Nam hiện giờ.

Các nhà xã hội học đều công nhận rằng sự hiện diện của các tổ chức phi chính phủ thường là dấu hiệu tiến nhanh của xã hội. Khi đất nước càng được tự do, các tổ chức phi chính phủ càng có cơ hội nắm lấy một số chức năng mà chính quyền trong quá khứ độc quyền quản lý (thí dụ như các công tác xây cầu ở vùng sâu, vùng xa; ủy lạo nạn nhân bão lụt, câu lạc bộ thể thao, v.v..) Trong tương lai, những tổ chức phi chính phủ lại còn có tiềm năng trở thành các tiếng nói chung, có ảnh hưởng đáng kể đến sự thay đổi chính sách quốc gia. Vì các lý do trên, tuy chủ trương không làm chính trị (hoặc ít nhất là không làm chính trị một cách lộ liễu), các tổ chức ấy có thể giúp mở rộng môi trường hoạt động chính trị tại Việt Nam.

Mặc dù vậy , nhiều chính trị gia và các nhà hoạt động dân chủ tại hải ngoại thường chỉ nhận xét hời hợt, lướt qua, hoặc thậm chí làm ngơ trước sự hiện diện của các tổ chức phi chính phủ, phi chính trị tại Việt Nam.

Có ba nguyên nhân cho sự thiếu sót này.

Thứ nhất - Người ta xét đoán sai lầm là hiện nay tại Việt Nam không có đời sống xã hội dân sự. Hoặc nếu có, thì nó cũng còn quá ít, quá mới, và quá lạ với đại đa số quần chúng. Cũng trong cách nhìn này, chính quyền Việt Nam hoàn toàn không bị ảnh hưởng hoặc miễn nhiễm trước sự đòi hỏi, chất vấn của người dân. Nguyên nhân chính cho sự ít ỏi của các tổ chức phi chính phủ là vì người dân thiếu khái niệm thành lập các tổ chức xã hội. Vì vậy xã hội dân sự tại VN chỉ có thể được đánh thức trong tiến trình dân chủ hóa, mà thường là do sự giựt dây của cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại.

Vì quan niệm trên, mọi khích động trong xã hội – như phong trào biểu tình đòi đất đai, đình công v.v..- thường được xem (nhầm) là tín hiệu của tiến trình phát triển dân chủ thay vì nhìn nhận chúng chỉ là phong trào đòi quyền lợi (không liên quan gì đến chính trị) của người dân.

Những ai có về Việt Nam nếu chú ý sẽ thấy rằng trong nước hiện nay có nhiều tổ chức xã hội. Mặc dù hoạt động của chúng bị giới hạn, thậm chí có khi bị đàn áp, nó vẫn có sức tồn tại dẽo dai. Các hội đoàn ủy lạo thiên tai, các hoạt động từ thiện tôn giáo (xây cầu, chuyên chở bệnh nhân cần cấp cứu đến bệnh viện, các nhà thuốc nam miễn phí, v.v..) càng ngày càng mạnh, tạo thêm niềm tin trong dân chúng, cắ rời dân chúng ra khỏi cái “dây rốn”[1] của chính phủ.

Thứ hai - Người ta thường xem xã hội dân sự tại Việt Nam là một khối, có tính chất đồng nhất và thống nhất. Tính đồng nhất và thống nhất ở đây là lòng khao khát tự do, dân chủ. Theo cách nhìn của cộng đồng người Việt tại hải ngoại thì mỗi người dân trong nước đều là những động lực đòi hỏi chính phủ phải đa nguyên, đa đảng. Trên thực tế thì đại đa số dân Việt Nam, nhất là nhóm trẻ, không chú tâm vào chính trị. Ở phương diện lý thuyết, nó quá xa vời với đời sống hàng ngày của người dân. Thật ra thì mong muốn của người trong nước cũng thay đổi và đa dạng như mong muốn của những người ở các nước tự do vậy. Phần đông lo chuyện cơm ăn, áo mặc và học vấn cho con mình. Chỉ có một phần ít trí thức là có nhận thức chính trị. Khi Việt Nam càng phát triển kinh tế, được gia nhập vào WTO thì xã hội dân sự lại càng thêm phức tạp và sự khác biệt ý thức chính trị của người dân càng nới rộng ra, thậm chí có thể đưa đến những mâu thuẩn trong ý thức hệ. Điển hình như ở Trung Quốc, mặc dù sự phát triển của tầng lớp kinh doanh tư nhân có giúp một phần cho việc tự do hóa các phương tiện thông tin báo chí, chính tầng lớp doanh nhân này lại có ý thức chính trị bảo thủ hơn hết. Họ sợ sự thay đổi của chính quyền sẽ làm hổn loạn các cơ hội làm ăn của họ.

Thứ ba - Nhầm lẫn thứ ba thường vấp phải trong cái nhìn về xã hội dân sự là khi người ta cho rằng chính quyền và xã hội lúc nào cũng có sự xung đột. Xã hội dân sự thường được định nghĩa là một lực đối chọi với chính phủ. Vì mọi cải cách chính trị là vấn đề ăn thua giữa người dân và chính phủ nên xã hội dân sự càng ngày càng phải được tách rời ra khỏi chính quyền, càng ngày càng phải đương đầu trực tiếp với chính quyền.

Kế hoạch trên tuy “cần” nhưng không “đủ” để phát triển hữu hiệu xã hội dân sự tại Việt Nam. Trên phương diện chính trị, quan niệm trên không những “hạn hẹp”, nó còn tạo chướng ngại cho tiến trình đòi tự do và dân chủ cho Việt Nam.

Trên thực tế thì trong một chế độ toàn trị không có biên giới rõ rệt giữa chính quyền và xã hội. Ngược lại, chính phủ xâm nhập vào xã hội để uốn nắn nó. Mặc dù chúng ta nỗ lực tăng thêm sự tách rời giữa chính phủ và xã hội, ít nhất là trong thời điểm này, khi lằn ranh còn mù mờ, chúng ta cần phải tìm thêm một chính sách, kế hoạch và phương tiện hoạt động toàn diện hơn.

Sự phát triển của xã hội dân sự trong tiến trình tự do hóa Việt Nam không nhất thiết chỉ đập vỡ cái khuôn của mối liên hệ giữa chính quyền và xã hội - nó còn là một tiến trình nhào nắn, phân vai lại. Muốn cho xã hội dân sự phát triển, chính quyền và xã hội phải đồng ý định nghĩa lại vai trò và chỗ đứng của người dân. Ở định nghĩa mới này, xã hội là một tập họp của nhiều cá thể riêng biệt chứ không phải là một khối thuần nhất. Người công dân không phải chỉ có sự liên hệ với nhau (trong xã hội) mà còn cần phải có liên hệ với chính phủ. Vì lý do đó, một số hoạt động phát triển xã hội dân sự phải xảy ra trong chính các lĩnh vực được chính phủ điều khiển hoặc chấp nhận.

Tại Trung Quốc, luật thuế má chung cho mọi công dân đã mở đầu cho một khái niệm mới. Người dân Trung Quốc nhận thức được sự thay đổi chổ đứng của mình: từ “đầy tớ của Đảng” sang “chủ nợ” của chính phủ. Họ đã bắt đầu đòi hỏi chính phủ phải có trách nhiệm làm sáng tỏ và báo cáo các chi thu. Các câu lạc bộ phụ nữ lúc đầu được thành lập để trao đổi kiến thức quản lý gia chánh từ từ mở rộng hoạt động thành các phong trào chống chính sách một con. Nhiều tổ chức bảo vệ môi trường cũng lên tiếng phanh phui các vụ tham nhũng có liên quan đến công trình khai thác lâm sản. Gần đây nhất, khi chính quyền Trung Quốc ban lệnh giới hạn mỗi nhà chỉ được nuôi một con chó, các hội bảo vệ súc vật đã phản ứng mạnh mẽ. Nhìn chung thì những tổ chức xã hội trên tuy có khi được xem là cánh tay nối dài của chính phủ, nhưng chỉ có chúng là có môi trường thuận lợi để gióng tiếng nói thay đổi chính sách quốc gia.

Nhìn một cách xa hơn, các tổ chức này – tạm xem như những phương tiện liên hệ giữa xã hội và chính quyền - còn có thể đem lại nhiều mối lợi cho quá trình phát triển tự do chính trị. Khi có những đảng viên thức tỉnh, nhận thấy và mong muốn thay đổi, họ có nhiều triển vọng củng cố chổ đứng của mình hơn nếu họ có thể tạo được liên minh với các thành phần, tổ chức trong xã hội dân sự có cùng quan điểm. Vào thập niên 80 ở Trung Quốc, thành phần tiến bộ trong chính phủ đã liên kết với các tầng lớp trí thức trong xã hội để chống đảng. Những người tiên phong cho việc xây dựng một xã hội dân sự cần nhận thức được quy tắc cốt yếu của phong trào phát triển tự do là: những thay đổi nào có được sự đồng ý của chính quyền – cho dù chỉ là đồng ý ngầm - sẽ có nhiều cơ hội tồn tại và thành công hơn là các tổ chức bị cấm đoán.

Albert Einstein từng nói: “Chúng ta không thể giải quyết vấn đề với cùng một cách suy nghĩ khi tạo ra nó”[2] Một số ý kiến đưa ra trong bài này thể tạo sự khó chịu, bất đồng, có khi còn dẫn đến sự giận dữ từ người đọc. Tuy nhiên, đã đến lúc chúng ta cần thay đổi cách nhìn sự việc, các lý thuyết, các giới hạn của khuôn khổ hành động [3] để xã hội dân sự tại Việt Nam có thể phát triển và thành công hơn.

Huỳnh Khôi

12/4/2006



[1] Umbilical cord

[2] “We cannot solve our problems with the same thinking we used when we created them” – Albert Einstein

[3] Paradigm

Sunday, December 10, 2006

“DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG” Ở TRUNG QUỐC: HƯỚNG VỀ HỆ THỐNG “MỘT ĐẢNG, HAI THÀNH PHẦN”?

Không có giải đáp đơn giản cho câu hỏi khi nào hoặc làm sao để nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa có dân chủ. Sự chuyển biến đưa đến dân chủ của quốc gia đông dân cư nhất thế giới này, nếu có xảy ra, thì chắc không phải là chuyện dễ. Hiện tại Đảng Cộng sản Trung Quốc giành độc quyền chính trị, cấm đoán thành lập các đảng phái có khả năng cạnh tranh với mình, hoặc sự hình thành một guồng máy tư pháp độc lập. Trong thời gian gần đây, Đảng cũng kiểm soát nghiêm ngặt các phương tiện truyền thông đại chúng; tăng cường các công tác kiểm duyệt chặt chẽ. Vì không có phong trào phản kháng nào vừa được tổ chức chu đáo vừa có tầm hoạt động sâu rộng, Trung Quốc khó có thể phát triển được một hệ thống chính trị đa đảng trong tương lai gần.

Mặc dù vậy, người ta sẽ nhầm nếu không để ý đến các phát triển chính trị quan trọng đã và đang xảy ra trong vài năm gần đây. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, Thủ tướng Ôn Gia Bảo và các nhà lãnh đạo Trung Quốc khác trong các cuộc họp mặt và tại các buổi họp chính thức đã bắt đầu thảo luận về sự cam kết cải cách chính trị và phát triển nền dân chủ giới hạn. (Liaowang Xinwen Zhoukan, tuần báo Quan điểm Tin tức], ngày 15, tháng 10) [1] . Đáng kể nhất có lẽ là những động lực mới đang xuất hiện trong Đảng Cộng sản Trung Quốc. Các lãnh tụ Trung Quốc đã bắt đầu dùng từ “Ðảng nội dân chủ” (dangnei minzhu) để mô tả quan niệm là Đảng cần phải thành lập một thể chế cân bằng và kiểm soát (check and balance) trong chính cấp lãnh đạo (Tân Hoa Thông tấn xã, 6/1).

Những phát triển gần đây trong tầng lớp chính trị gia ưu tú tại Trung Quốc có thể được mô tả như một sự tiến hoá của hệ thống “một Đảng, hai thành phần”. Hệ thống này tiêu biểu cho sự xuất hiện từ cuối thập niên 90 của hiện tượng cân bằng quyền lực giữa hai khối chính trị tuy không chính thức nhưng hầu như lúc nào cũng có quyền lực ngang nhau. Lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, quyền hành của đảng cai trị không còn nằm trong tay của một lãnh tụ độc tài như Mao Trạch Đông hoặc Đặng Tiểu Bình nữa. Thay vào đó, nó được chia sẻ giữa hai thành phần hoặc hai liên minh đang cạnh tranh với nhau. Người ta không thể phân loại hai thành phần này dựa trên ý thức hệ như cấp tiến hay bảo thủ, hoặc cải cách hay cứng rắn. Nếu gọi cho đúng thì hai thành phần này là: (1) “liên minh ưu tú” dẫn đầu bởi cựu chủ tịch Giang Trạch Dân và đương kim phó chủ tịch Tăng Khánh Hồng và (2) “liên minh dân tuý” dẫn đầu bởi chủ tịch Hồ Cẩm Đào và thủ tướng Ôn Gia Bảo. Hai nhóm này có những đặc điểm như sau: (1) hai liên minh đại diện cho hai thành phần xã hội-chính trị và địa lý khác nhau; (2) hai liên minh có chính sách hoạt động và ưu tiên trái ngược nhau; và (3) tuy có những vấn đề đưa đến sự cạnh tranh nhưng cũng có những vấn đề mà hai thành phần đồng ý hợp tác với nhau.


Tương phản về xã hội-chính trị và địa lý

Liên minh ưu tú và liên minh dân tuý có những khác biệt một trời một vực trong phương diện xã hội chính trị và địa lý. Những khác biệt này phần nhiều là phản ánh của sự nghiệp và quan hệ chính trị riêng của tầng lớp lãnh đạo. Phe nòng cốt của liên minh ưu tú là một lớp người mang tên “Nhóm Thượng Hải”. Nhóm này bao gồm các nhà lãnh đạo nổi bật Wu Bangguo (Chủ tịch Quốc hội Nhân dân), Hoàng Cúc (Phó Thủ tướng), Trần Lương Vũ (cựu Bí thư Thành uỷ Thượng Hải) và Tăng Bồi Viêm (Phó Thủ tướng). Giống như Giang Trạch Dân và Tăng Khánh Hồng, các nhân vật nổi bật trong liên minh này - như Vương Kỳ Sơn (Thị trưởng Bắc Kinh), Bo Xilai (Bộ trưởng Thương mại) và Châu Tiểu Xuyên (Giám đốc Ngân hàng Quốc gia) – cũng đều là những ông vua con, hoặc là con cháu của các viên chức cao cấp.

Nhiều thành phần lãnh đạo của nhóm liên minh ưu tú này đã được gửi đi học ở nước ngoài (nhóm được gọi là “Hải Qui”) và có kiến thức tiến bộ trong các lãnh vực tài chính, thương mại, đối ngoại, kỹ nghệ tin học, và giáo dục. Họ đại diện cho quyền lợi của tầng lớp khá giả, có văn hoá cao cũng như của những vùng duyên hải có nền kinh tế phát triển. Theo một nghiên cứu chính thức của Trung Quốc được công bố cách đây không lâu thì trong 3.220 doanh nhân Trung Hoa giàu nhất (mỗi doanh nhân có tài sản trị giá trên 100 triệu nhân dân tệ, hay $12.7 triệu dollar Mỹ) một số lớn là con cháu của các viên chức cao cấp, phần đông sống ở tám tỉnh và thành phố ven biển (Quảng Đông, Chiết Giang, Thượng Hải, Bắc Kinh, Giang Tô, và Liêu Ninh). Khoảng 85-90% làm việc trong 5 khu vực: tài chính, ngoại thương, bất động sản, xây cất và an ninh.

Ngược lại, cả Hồ Cẩm Đào lẫn Ôn Gia Bảo không ai xuất thân từ gia đình có nhiều thành tích chính trị. Không những vậy, họ đã sống và làm việc nhiều năm tại những vùng nghèo đói nhất của Trung Quốc. Phần đông thành viên của liên minh dân tuý tiến thân từ chính quyền địa phương, nhiều người làm việc trong các khu vực như đoàn thanh niên, quản lý nông thôn, tổ chức Đảng, cơ quan tuyên truyền, mặt trận thống nhất lao động và luật pháp. Cũng giống như Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo, họ lớn lên từ những gia đình sống sâu trong nội địa và không được ưu đãi. Thành phần nòng cốt của liên minh dân tuý là Đoàn Thanh niên Cộng sản, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Hồ Cẩm Đào vào đầu thập niên 80. Bốn người có triển vọng gia nhập Bộ Chính trị cũng như Ban Bí thư Trung ương kỳ tới là: Bí thư Đảng uỷ tỉnh Liêu Ninh Li Keqiang, Bí thư Đảng uỷ tỉnh Giang Tô Li Yuanchao, Giám đốc Mặt trận Thống nhất Lao động Liu Yandong và Bí thư Đảng uỷ tỉnh Sơn Tây Zhang Baoshun - cả bốn nhân vật này đã từng hoạt động dưới quyền của Hồ Cẩm Đào trong Đoàn Thanh niên Cộng sản hồi đầu thập niên 80. Tân Bí thư Đảng uỷ của thành phố Trùng Khánh, một ngôi sao mới mọc của thế hệ lãnh đạo thứ năm cũng đã làm việc cho Đoàn Thanh niên của tỉnh An Huy.


Từ Giang Trạch Dân đến Hồ Cẩm Đào: Một sự thay đổi chính sách

Mặc dù nền kinh tế Trung Quốc đã phát triển một cách ngoạn mục trong thời đại Giang Trạch Dân, ở thời điểm này người ta cũng chứng kiến sự cách biệt càng ngày càng xa của mức lợi tức giữa người giàu và người nghèo, giữa người sống trong nội địa và người sống ở các vùng duyên hải. Giang Trạch Dân đã phân phối tài nguyên một cách bất cân xứng, ưu tiên các nguồn tài chính để phát triển Thượng Hải và các thành phố ven biển trong lúc bỏ rơi nhiều tỉnh trong lục địa. Trong vòng một thế hệ mà Trung Quốc đã thay đổi từ một trong những quốc gia công bằng nhất trên thế giới - với hệ số Gini là 0.33 năm 1980 – sang một quốc gia thiếu công bằng nhất với hệ số Gini là 0.45 năm 2004 [2] . Thêm vào đó, Trung Quốc đã phải trả một giá khổng lồ cho sự thoái hoá môi trường do tư duy thiển cận, chỉ chú tâm vào việc phát triển kinh tế bằng mọi giá.

Cảnh giác bởi những vấn đề nghiêm trọng liên quan đến đường lối chỉ đạo của Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào sau ba năm nắm quyền đã thay đổi tiến trình phát triển của Trung Quốc ở ba chiều hướng. Thứ nhất, thay vì chỉ chú trọng phát triển tổng sản lượng nội địa (GDP) cho thật nhanh, ông chọn một mô hình phát triển đặt nặng hướng phát triển bền vững và thân thiện với môi trường hơn. Thứ hai, thay vì chỉ chú trọng phát triển các thành phố ven biển, ông chọn một kế hoạch phát triển cân bằng địa phương hơn. Thứ ba, ông Hồ thay đổi chiều hướng chính sách phát triển quốc gia để không còn thiên vị doanh nhân và các thành phần ưu tú trong xã hội mà chú trọng hơn đến việc bảo vệ quyền lợi của nông dân, công nhân di trú (những công dân phải bỏ quê ra tỉnh tìm việc làm), thành phần thất nghiệp tại thành thị, và những thành phần xã hội yếu kém khác. Việc chú trọng phát triển công bằng tại mọi vùng đã giúp cho những thành phố nằm sâu trong nội địa như Thành Đô, Trùng Khánh và Tây An phát triển kinh tế mau lẹ nhờ sức mạnh của vốn đầu tư. Điển hình là những dự án trùng tu kỹ nghệ tại Trùng Khánh sẽ nhận được số tiền đầu tư là 350 tỷ nhân dân tệ ($43.5 tỷ dollar Mỹ) trong vòng 5 năm tới (Diyi Caijing Ribao, nhật báo Kinh tế và Tài chánh thứ nhất ngày 6, tháng 2).

Ðồng thời, Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo đã thực hiện một số biện pháp đắc nhân tâm như giảm bớt gánh nặng thuế má cho nông dân, huỷ bỏ những quy định kỳ thị công nhân di trú, và phát động phong trào uỷ lạo toàn quốc cho những người thiếu thốn. Sự thay đổi chủ trương và chính sách này chứng tỏ cho người dân thấy là tầng lớp lãnh đạo Trung Hoa không những nhận thấy được sự căng thẳng và các khó khăn của quốc gia, họ còn sẵn sàng đối phó với chúng một cách tích cực và đúng lúc.


Tranh đua, hợp tác và tương thuộc phức tạp

Trong lúc hai thành phần trong Đảng Cộng sản cạnh tranh với nhau về quyền lực, ảnh hưởng và quyền chủ động ban hành chính sách, họ cũng hợp tác với nhau để giữ bền vững cho nền chính trị của Trung Quốc. Một hiện tượng đáng chú ý là trong 6 ban lãnh đạo tối quan trọng, điển hình như chức vụ Chủ tịch nước và Ban Quân sự Trung ương, hai chức vụ cao nhất của mỗi cơ cấu này lúc nào cũng được chia đều cho thành phần lãnh đạo của hai liên minh [3] . Sự phân chia này tạo ra một hệ thống cân bằng và kiểm soát nội bộ. Mặc dù liên minh dân tuý của Hồ Cẩm Đào tiếp tục lớn mạnh, sự liên quan tương thuộc phức tạp này có thể sẽ được tiếp tục trong nhiều năm tới.

Chính trị bè phái dĩ nhiên không phải là một hiện tượng mới tại Trung Quốc, cái mới lạ ở đây là khuynh hướng hợp tác và chia sẻ quyền lợi thay vì mạnh được, yếu thua (zero-sum). Xu hướng này phản ánh một thực tế là không liên minh nào có đủ sức mạnh để đánh bại địch thủ của mình. Họ cũng không tìm cách hạ bệ nhau. Mỗi liên minh đều nhận thức được là họ có những sức mạnh mà phe kia không có, và ngược lại cũng thế. Ví dụ như các viên chức tại tỉnh Tuanpai rất giỏi giải quyết các vấn đề về tổ chức và tuyên truyền. Họ thường có nhiều kinh nghiệm quản lý nông thôn, nhất là ở các vùng nằm sâu trong nội địa. Vì ít tiếp xúc với lĩnh vực tài chính và thương mại, họ không đủ kiến thức luận giải nền kinh tế của quốc tế. Không những không tìm cách hạ nhau, hai liên minh còn có một số mục tiêu chung: bảo đảm sự an toàn cho Đảng Cộng sản Trung Quốc và đẩy mạnh địa vị của Trung Quốc lên hàng đầu quốc tế. Những mục đích chung này làm cho cái được gọi là “hệ thống lưỡng đảng với đặc điểm Trung Quốc” sẽ được duy trì trong tương lai gần đến trung hạn tới đây.

Vì giới lãnh đạo và các phe phái trong Đảng luôn tham gia vào việc xây dựng liên minh, thương lượng và thoả hiệp, nên chắc chắn họ sẽ tìm cách bảo đảm để tiếp tục được cầm quyền tập thể. Việc mất chức gần đây của Bí thư Thượng Hải, Chen Liangyu, một nhà lãnh đạo nổi bật trong nhóm Thượng Hải bị cáo buộc tội tham nhũng, tái khẳng định tính linh hoạt mới trong nền chính trị phe đảng Trung Quốc. Dù chưa có chi tiết rõ ràng về thoả hiệp giữa Hồ và giới lãnh đạo nhóm Thượng Hải song người ta có lý khi cho rằng chiến dịch toàn quốc cổ võ cho việc xuất bản tuyển tập của họ Giang, đựợc tiến hành trước khi ông Chen bị cách chức, và việc bổ nhiệm Han Zheng, một thành viên của nhóm Thượng Hải, làm quyền Bí thư của thành phố này (thay vì đưa một người thuộc phe dân tuý từ nơi khác đến), đều nẳm trong thoả hiệp này.


Giới hạn và viễn tượng tương lai

Mặc dù linh hoạt, hệ thống “lưỡng đảng” trong một đảng của Trung Quốc có nhiều giới hạn đáng kể. Các thành phần và liên minh chính trị trong Đảng Cộng sản Trung Quốc thiếu tính chất trong sáng, và không như những nền chính trị phe đảng tại các nước khác, nền chính trị phe đảng trong Đảng Cộng sản Trung Quốc chưa được xem là chính đáng trong Ðiều lệ Đảng. Chính trị phe phái trong nội bộ đảng của Trung Quốc có thể tạo một hệ thống kiểm soát và cân bằng trong guồng máy chính trị và do đó làm sinh động trở lại sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, ĐCSTQ, ít nhất là trong hình thái hiện nay, không chắc có thể tồn tại vĩnh viễn, vì sức mạnh của xã hội thế nào cũng đòi hỏi thêm phương thức tiếp cận và đại diện trong tiến trình chính trị Trung Quốc. Không những vậy, chính những phe nhóm trong Đảng cũng không chắc là không thay đổi. Các vận động chính trị hành lang và các chiến dịch mang hình thái tiêu cực khác, tuy hiện giờ bị cấm đoán, rồi sẽ phát triển trong tương lai, sau khi bắt đầu có sự cạnh tranh chính trị. Gần đây ĐCSTQ đã quyết định là trong cuộc bầu cử đại biểu cho Đại hội Đảng kỳ 17, số ứng cử viên sẽ nhiều hơn 15% con số các chức vụ cần được bầu. Có nghĩa là một số ứng cử viên sẽ không được đắc cử (Shijie Ribao, tập san Thế giới, 13/11.) Những cuộc bầu cử Ban Chấp hành Trung ương rồi đây cũng sẽ có nhiều cạnh tranh hơn.

Trong cuộc bầu cử đại biểu cho Đại hội Đảng lần thứ 16 năm 2002, hình như phần đông thành viên của liên minh ưu tú đã bầu cho Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo vì cả hai đã chỉ mất đi một số phiếu rất ít. Người ta có thể dự đoán rằng tại cuộc bầu cử Đại hội Đảng lần thứ 17, hai ông này chắc sẽ khó nhận được sự ủng hộ tuyệt đối. Các thành viên của phe ưu tú đã nhận thấy cần phải hạn chế quyền lực của phe dân tuý và các nhà chính trị Trung Quốc cần phải làm quen với “luật chơi mới” của chính trường. Nếu như những giả thuyết trên là đúng thì chúng ta sẽ sớm chứng kiến một giai đoạn phát triển chính trị “lưỡng đảng” và linh hoạt hơn tại Trung Quốc.


Bản tiếng Việt © 2006 talawas



[1]Theo lời của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và những cố vấn của ông, phong trào cải cách chính trị tại Trung Quốc sẽ xảy ra trong bốn lãnh vực: (1) trách nhiệm của viên chức với công chúng và thể chế hoá cơ chế giám sát trong Đảng; (2) bầu cử trực tiếp ở hạ tầng cơ sở (v. d. tại các làng xã nông thôn và quận huyện thành thị); (3) củng cố thể chế pháp trị; và (4) xã hội dân sự và các tổ chức phi chính phủ.
[2]Ru Xin, Lu Xueyi và Li Peilin, Nghiên cứu và dự báo phát triển xã hội, 2005
[3]Ví dụ, Hồ Cẩm Đào là Chủ tịch Hội đồng Quân sự Trung ương trong khi tướng Guo Boxiong, Phó Chủ tịch và là nhân vật cao cấp thứ nhì, lại là bạn thân của Giang Trạch Dân.

Thursday, November 30, 2006

Xuat Cang Dan Chu

Hoa Kỳ đã đưa ra ba nguyên nhân để giải thích cho sự xâm chiếm Iraq: thứ nhất, để tìm và diệt vũ khí hủy diệt hàng loạt [1] (WMD); thứ nhì, để chấm dứt liên hệ và ủng hộ của chính quyền Saddam Hussein với các phần tử khủng bố; và thứ ba, để xây dựng một chế độ dân chủ, tự do tại Trung Đông.

Sau hai năm Hoa Kỳ rốt cuộc phải công nhận là không tìm được WMD. Nếu có nhiều người nghĩ nguyên nhân thứ nhất bắt đầu từ những sai lầm, thiếu sót của tình báo Hoa Kỳ thì cũng không ít người cho nguyên nhân thứ hai là một luận điệu giả dối vì cho đến bây giờ chính quyền Hoa Kỳ vẫn chưa chứng minh được sự liên hệ giữa Saddam Hussein và tập đoàn Osama Bin Laden.

Còn nguyên nhân thứ ba? Hoa Kỳ có xâm chiếm Iraq để “xuất cảng” và áp đặt nền dân chủ của Hoa Kỳ tại Trung Đông hay không? Hoa Kỳ sẽ thành công hay không? Hay đây cũng chỉ là một lý do gượng ép và một hy vọng hão huyền?

Bài viết này sẽ không nhằm trả lời các câu hỏi trên. Nó cũng không có mục tiêu giải thích hoặc biện minh cho chính sách của Hoa Kỳ tại Iraq. Người viết chỉ mong góp một phần suy luận nhỏ cho câu hỏi: “Dân chủ có cần, có thể, hoặc có nên, được xuất cảng hoặc áp đặt hay không?”

Trong khi nhân quyền được chấp nhận như một giá trị toàn cầu, dân chủ thường không được công nhận như là một hình thức chính phủ thích hợp nhất cho mọi người trên thế giới. Dân chủ không phải chỉ có trong lịch sử Tây Âu, nó không xa lạ với châu Á và châu Phi. Tại Ấn Độ, Nhật Bản và các nước tại châu Phi, nền dân chủ đã có qua nhiều thế kỉ. Tuy nhiên, văn hóa, tín ngưỡng cổ truyền, và dân trí không nhiều thì ít đều có ảnh hưởng đến việc thiết lập một nền dân chủ thích hợp cho một quốc gia. Nên chọn nền dân chủ nào? Dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp (dân chủ đại diện), dân chủ tham gia? v.v…

Dù bất cứ hình thức nào, dân chủ có thể được đâm chồi và phát triển mà không nhất thiết cần có sự tác động trực tiếp từ phía ngoài. Nam Hàn tự chuyển từ chế độ độc tài sang dân chủ mà không cần sự thúc đẩy đáng kể nào của ngoại bang (mặc dù có sự hiện diện của lính Hoa Kỳ trên lãnh thổ). Nền dân chủ tại Thái Lan và Indonesia tuy không hoàn hảo nhưng có thể xem là khá vững chãi mà không có sự áp đặt của Hoa Kỳ. Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hy Lạp tuy có hậu thuẫn từ môi trường châu Âu nhưng nhìn chung thì các quốc gia này tự tìm cho mình một chế độ dân chủ. Nam Phi chọn chế độ dân chủ dưới sức ép của cộng đồng thương mãi và chính sách cấm vận của các quốc gia tự do. Ngược lại, tại Trung và Đông Âu, nhờ vào sự không can thiệp của Nga Sô mà nền dân chủ có thể phát sinh và tồn tại.

Thế thì cộng đồng quốc tế có nên áp dụng chính sách “đèn nhà ai nấy sáng”, tránh can thiệp vào nội bộ của các quốc gia độc tài, tránh xung đột, mâu thuẫn chăng?

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ đã áp dụng chính sách “hòa hoãn" để đạt và giữ vững quan hệ bang giao với các nước cộng sản. Thậm chí chính sách này còn được đa số chính trị gia Hoa Kỳ ưa chuộng, xem như là thượng sách. Cổ động mạnh nhất cho chính sách này là Henry Kissinger, một người theo thuyết “thực tiễn”[3] từ thời Nixon. Việc đầu tiên của các “thực tiễn gia” là tách rời chánh sách bảo vệ quyền lợi quốc gia ra khỏi phạm trù đạo lý. Vì vậy, Kissinger đã không ngần ngại phản bội đồng minh Việt Nam sau khi bắt tay được với kẻ thù Trung Quốc. Để bảo đảm cho quyền lợi quốc gia, Hoa Kỳ sẵn sàng gầy dựng và ủng hộ các chính phủ độc tài. Điển hình là Hoa Kỳ đã từng ủng hộ chính quyền của Augusto Pinochet, Omar Khadafi, Ferdinand Marcos. Ngay chính Saddam Hussein cũng do Hoa Kỳ dựng lên.

Chính sách “hòa hoãn” này đã và đang được áp dụng trong suốt hơn 20 năm qua. Triết lý “độc tài cũng được, miễn sao độc tài theo ta và của ta” xem ra khá hữu hiệu. Mọi việc đều được xem là khá êm đẹp, ít nhất là cho đến ngày 11 tháng 9 năm 2001.

Trong số 19 tên khủng bố, 15 tên có quốc tịch A Rập Saudi. Nhiều thành viên Al-Qaeda và chính Osama Bin Laden là người A Rập Saudi. Tuy vậy, giả thuyết cho rằng Hoa Kỳ đã nhắm mắt làm ngơ cho các chế độ độc tài tại A Rập Saudi, Pakistan, Afghanistan, tạo môi trường sinh sản và nuôi dưỡng quân khủng bố vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi. Vì vậy, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đầy những mâu thuẫn. Tuy tổng thống Bush viện dẫn lý do xây dựng nền dân chủ tại Trung Đông là một mục đích xâm chiếm Iraq, bộ ngoại giao Hoa Kỳ vẫn tránh trừng phạt A Rập Saudi mặc dù đã liệt kê nước này vào danh sách các quốc gia cần quan tâm vì vi phạm tự do tôn giáo. Trong lúc tổng thống Bush tuyên bố: “Xây dựng một Iraq tự do là một cơ hội lịch sử để thay đổi thế giới”[4] thì tờ New York Times xem việc xây dựng một chế độ dân chủ tại Iraq là một “mơ ước trẻ con”. Một thượng nghị sĩ tại Kansas còn nói: “Không thể đặt tự do xuống như trải thảm được”.[5]

Thật ra, Hoa Kỳ không cần phải xuất cảng dân chủ. Hoa Kỳ càng không cần phải áp đặt dân chủ bằng máy bay, xe tăng hay súng đạn. Hoa Kỳ chỉ cần ủng hộ cho tự do và tạo điều kiện cho nền dân chủ được tự phát triển. Nói một cách khác, Hoa Kỳ chỉ cần bảo vệ, giúp đỡ các chiến sĩ tranh đấu cho tự do, nhân quyền trên khắp thế giới để chính những người ấy tự xây dựng cho dân của họ một nền dân chủ thích hợp.

Dân chủ không đồng nghĩa với tự do bầu cử. Thật vậy, bầu cử tự do phải là mục đích cuối cùng thay vì là bước đầu tiên của công cuộc xây dựng một nền dân chủ. Hấp tấp đòi hỏi tự do bầu cử tại các quốc gia quen sống dưới chế độ độc tài chẳng khác gì muốn đặt một cái nóc nặng nề trên một cái sườn nhà lỏng lẻo. Xã hội dân chủ phải được xây dựng bằng cách thay thế sự sợ hãi bằng không khí tự do, nơi mà các quyền tự do căn bản của người dân được bảo vệ. Trong mọi hoàn cảnh, khi con người có được sự lựa chọn, lúc nào họ cũng chọn tự do thay cho chuyên chế, dân chủ thay cho độc tài, pháp trị thay cho pháp quyền.

Trước đe dọa của khủng bố, các quốc gia tự do đều nhận thấy rằng sự khác biệt giữa thế giới tự do và thế giới sợ hãi quan trọng nhiều hơn là sự khác biệt của các chính sách ngoại giao. Vì vậy, mặt trận đối lập giữa tư bản và cộng sản đang được thay thế bằng mặt trận đối lập giữa dân chủ và độc tài. Thay vì trực tiếp áp đặt nền dân chủ, Hoa Kỳ và các chính phủ tự do trên thế giới phải ràng buộc chính sách ngoại giao của quốc gia họ với tiến trình dân chủ của các nước độc tài. Các yếu tố phát triển dân chủ (quyền tự do ngôn luận, báo chí, quyền tự do xuất ngoại, quyền tự do lập hội, v.v…) cần phải được gắn liền với quyền lợi mà các quốc gia độc tài muốn hưởng.

Bài học Helsinki cho thấy rằng khi sự đòi hỏi tôn trọng nhân quyền được hỗ trợ bằng các chính sách hữu hiệu, tự do và hòa bình sẽ được phát triển. Trong trường hợp Helsinki, Sô Viết đã phải lựa chọn một là tôn trọng nhân quyền, hai là mất cơ hội và quyền lợi làm việc với thế giới tự do. Vì vậy, các thỏa thuận tại Helsinki, tuy lúc đầu bị xem là những lời hứa suông, lại trở thành những quyết định tối quan trọng trong cuộc chiến tranh lạnh.[6]

Chính quyền Hoa Kỳ biết rằng họ không thể chờ đợi các chính quyền độc tài tự nguyện từ bỏ quyền lực cai trị. Ngược lại, Hoa Kỳ cũng không thể đợi chờ sự đồng tình của mọi quốc gia trên thế giới. Để chứng minh rằng cuộc chiến Iraq không bắt nguồn từ quyền lợi vị kỷ của quốc gia, Hoa Kỳ cần có một chính sách ủng hộ dân chủ và nhân quyền trước sau như một.

10/30/2005


[1] Weapon of mass destruction

[2] détente

[3] realist

[4] “An historic opportunity to change the world” – Primetime Press Conference, 13 tháng 4. 2004

[5] Natan Sharansky & Ron Dermer: The Case for Democracy – The Power of Freedom to Overcome Tyranny and Terror. Public Affairs, New York, 2004

[6] Ibid

Random Thoughts on Win-Win


Contrary to popular believes, in many negotiations, there need not be winners and losers. All parties can gain. Granted that how much each party can gain from the negotiation depends on how well prepared or how “good” the negotiators are, there should not be a need for the parties to walk away from the deal feeling like losers. Integrative negotiation, also known as cooperative, collaborative, win-win, mutual gains, or problem solving – is a negotiation philosophy that seeks to “expand the pie” to allow for satisfaction from the deals.

The major differences between win-win and win-lose philosophy are based on the immediate substantive outcomes of the negotiation in relation to the long term relationship between the parties. Indeed, while the parties in a win-lose negotiation use all of their tactics to gain the “upper hand”, they completely disregard the possibility of dealing with each other again the in the future (buying a car, price-haggling in an open market, etc.). One would tend to choose a win/lose negotiation strategy if one only wants to get the “best single deal”, completely disregard of the other party’s goals, aspirations and the importance of future relationships.

At the opposite of the win/lose philosophy is the win/win philosophy. As mentioned, a win-win philosophy recognizes that the goals of the parties are not mutually exclusive – i.e. each party wants the best deal possible for themselves. One party’s gain is not necessarily at the other party’s expense. A win-win philosophy and strategy is crucial for negotiations among parties who look to establish a long-term relationship (supply-demand, prime – sub contractors, friends and family, compatriots, etc.)

As we compare the two philosophies, we immediately recognize that a win-win strategy is more difficult and hence takes more “brain cells” to formulate and execute. No doubt that it would take a great deal of flexibility, creativity and teamwork from both sides of the negotiating table to achieve common, collective or compatible goals.

Let’s take it a step further and ask the question of whether the two philosophies are mutual exclusive or can they co-exist in certain conditions. Are there situations that allow both strategies? The answers will have to depend on the conditions of the deals; which in turns dictate the causal relationship of the two parties. My contention is that one can start off with an integrative strategy and later switch to a distributive strategy. A reversal of orders however will not work. The risk of first implementing a distributive strategy – hence, using all available tactics to get the best deals – before the integrative strategy is too high. Not only does this send a mix/confusing signals to the other party, it is one sure way to establish mistrust and destroy the relationship.

The Vietnamese government is now implementing a “glasnost” policy of opening up and trying to solicit help from the Vietnamese American professional community. “Getting to Yes” with the Vietnamese government is still as difficult and tricky as can be. Obstacles and drawbacks from this method of negotiating abound. So what are the obstacles?

The lack or willingness to exchange information:

At the heart of a win-win negotiation is the willingness to share information on the below-the-surface interests and needs. Why one wants something is often more important than what one wants. The Vietnamese government wants to control access to all information flowing out and coming in to the country, but why do they want that? Unless the negotiating party admits to their needs, desires or fears that dictate their positions, the objectives – not matter how clearly defined – are extremely limited. The Vietnamese officials want to control information because they fear the proliferation of democracy and hence weaken their grip on power. However, unless they are willing to get to the core issues, we can not explore alternatives to the solutions.

Cannot separate the people from the problem:

Not less important is the issue of trust among the parties. Unless there is trust, people will continue to be reserved and wary of each other. Their behaviors will be contradictory to what they say. They can agree to a win-win strategy but they will instead implement win-lose tactics. They can use their power to bully the other team, or use psychological warfare or deceptive tactics to get what they way. Obviously, there is a deep mistrust between the Vietnamese-American community and the Vietnamese government. It is fair to say that the Vietnamese-American community “has been burnt” too many times and hence they view the actions from the government as some form of trickeries.

As cliché as it sounds, “trust has to be earn” and can not be demanded. Parties need to architect a plan of action that consists of small, specific and measurable actions that will demonstrate their good wills. More importantly, at the first steps to negotiation, is the need to separate the issues from the people. De-personalization of the problems is a crucial prerequisite to the negotiation success.

Cannot identify and define the Problems without assigning blames:

Parties need to define the problems based on interests and not positions. Opening a negotiation with statement like: “These problems arise because you have done the followings ….” is a bad start. There should not be an assignment of blame in our goals. The problems will need to be recognized as mutual and without “ownerships”. To “own the problem” is to be responsible and possibly be the cause of the problem.

The parties will need to explore the solutions of the problems together. They should not get stuck with the obvious solutions. Instead they need to brainstorm and be creative in finding all solutions without being judgmental. Once the list of possible solution is exhaustive, they can review and choose the most appropriate solution to implement. There is a need to invent options for mutual gains.

Cannot define objective criteria:

Parties need to define ways to rank and weigh each option. Without clearly defined objectives, parties can not be clear on what options to take. Be alert to the intangibles options; invent ways to logroll solutions and expectations, risk and time preferences.

Our struggle for a democratic and prosperous Vietnam is long and arduous and a Win-Win negotiation strategy is but an enabler, a precatory method to engage. We should not be dilatory to engage in further exploring such strategy and tactics; however, neither should we be the “pollyannas” about the willingness and the motives of the other side. Hence, we need to recognize a Win-Win strategy for what it is and what it is not. Specifically, it is merely a tool and not a panacea to all problems.

Hy Vọng Không Phải Là Kế Hoạch

Tôi thường nghe các bậc trưởng thượng đặt câu hỏi: “Rồi đây tuổi trẻ Vietnam hải ngoại sẽ có vai trò gì trong công cuộc xây dựng đất nước? “

Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần thử nhận xét tâm lý của tuổi trẻ hải ngoại. Câu hỏi đầu tiên cần được đặt ra là họ có còn tha thiết đến Việt Nam? Và nếu còn, thì các yếu tố nào sẽ thúc đẩy hoặc ngăn chận họ dấn thân đóng góp?

Chúng ta cần nhìn thẳng vào vấn đề, mặc dù nhiều lúc sự thật không theo ý mình muốn.

A. Tư tưởng – đa số lớp trẻ lớn lên tại hải ngoại không còn tha thiết nhiều đến Việt Nam, và càng không có khái niệm rõ ràng về tự do, dân chủ.

Thế hệ sanh ở thập niên 1960 - 1970, bây giờ đã hơn 30, 40 tuổi. Họ không còn trẻ nữa. Thế hệ này, chúng ta tạm gọi là “thế hệ một rưởi”, là thành phần còn nhiều liên hệ đến VN nhất. Tuy có một số ít tham gia hội đoàn nhưng sinh hoạt thường nặng về văn hóa, âm nhạc; và một số ít khác tham gia hoạt động chính trị.

Thế hệ sanh từ 70 – 80 lại càng ít hoạt động. Họ chăm chú đi học và đi làm để tạo cho mình một tưong lai vững chắc. Phần đông thế hệ này hội nhập vào đời sống nơi mình ở tương đối nhanh và nói thành thạo tiếng bản xứ. Tuy nhiên họ vẫn còn đọc và viết được tiếng Việt. Một số rất ít tham gia hoạt động chính trị.

Thế hệ sanh từ năm 80 tại hải ngoại, phần đông không nói và đọc được tiếng Việt, và không còn nghĩ mình là người Việt Nam nữa.

B. Phương pháp - các phương pháp tranh đấu cho Vietnam thường thụ động, đối chọi nhau.

Sự phóng khoáng của tuổi trẻ không đủ mạnh để ngăn chận mầm mống chia rẽ trong các thành phần chịu hoạt động. Họ chia phe theo ba nhóm và có ba chủ trương khá rõ rệt:

Chủ trương ưu tiên phát triễn kinh tế: Các bạn trong nhóm này tin rằng Vietnam tuy chưa có “đủ” tự do, dân chủ, nhưng việc trước hết là phải ủng hộ phát triển kinh tế để nâng cao đời sống người dân. Họ hoạt động thầm lặng nên khó đo lường được thực lực. Cũng có khi họ chấp nhận lý thuyết được đưa ra bởi các bạn trẻ ở quốc nội là nước nhà cần một đảng duy nhất để bảo đảm trật tự an ninh cho đất nước và phát triển đời sống người dân. Họ lý luận rằng càng có nhiều đảng thì càng có nhiều tranh chấp, hỗn loạn.

Vã lại, một số bạn tin rằng phát triển kinh tế rất cần thiết cho một xã hội dân sự mạnh, và nó là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tự do, dân chủ. Từ từ rồi cũng có tự do. Hơi đâu mà lo. Hãy hy vọng!

Nhóm này được sự thông cảm của thành phần trẻ trong nước nhất!

Chủ trương ưu tiên dân chủ, tự do – Nhóm này tương đối được biết đến nhiều nhất. Các vận động của họ càng ngày càng hửu hiệu hơn, phát triển từ các cuộc biểu tình ồn ào trong quá khứ đến kế hoạch hóa các cuộc vận động trong chính trường tại các quốc gia cư ngụ. Họ tạo ra một sức đối kháng cần thiết, và họ đã khá thành công trong cuộc vận động nàỵ Điển hình như chiến dịch Cờ Vàng, Vùng Không Cộng Sản. Họ tích cực vận động với bộ ngoại giao, với các cơ quan bảo vệ nhân quyền quốc tế và chính quyền địa phuơng để làm nổi bật vấn đề nhân quyền tại Việt Nam.

Nếu được hỏi “Như thế có đủ đem tự do, dân chủ đến cho Vietnam không? ", họ sẽ trả lời “Có thể không đủ, nhưng đó là cách vận động hữu hiệu nhất" Hãy hy vọng!

Chủ trương ưu tiên bảo tồn văn hóa - Nhóm này đặt biệt chủ trương tạo hoạt động duy trì văn hóa dân tộc qua các tổ chức trại hè, nhạc thính vòng, chiếu phim ảnh Việt Nam. Đa số tránh hoạt động chính trị và rất thận trọng vì sợ tai tiếng, chụp mủ. Họ cố giữ cho mình được “trong sáng”, tránh liên lụy vào các tranh cãi mà họ cho là vô ích.

Một số tin rằng khuynh hướng dân chủ có giá trị toàn cầu. Rồi đây thời thế sẽ đẩy đưa nước nhà đạt được tự do, dân chủ. Hãy hy vọng!

Nhóm 1 và 2 thường không làm việc với nhau. Không ít thì nhiều, họ bị ảnh hưởng từ các bậc cha anh. Cũng có lúc họ âu yếm gọi nhau “phe cực đoan”, “phe thân cộng.”

Chúng ta cần phải nhìn nhận là tại hải ngoại ta không có một kế hoạch hoặc chương trình nào có thể kết hợp ba nhóm. Ở đây tôi không muốn nói đến nhu cầu kết hợp tập trung; tôi muốn nói một chính sách toàn diện đưa đến sự kết hợp giữa các thành phần.

Trong lúc chính quyền Việt Nam mới vừa cho ra một chính sách rõ ràng để “cảm hóa” và thu hút tài năng của các thành phần trẻ tại hải ngoại, thì chúng ta thờ ơ, để mặc cho các nhóm trẻ hoạt động riêng rẻ, rời rạc, theo tiềm thức. Các tiềm thức này, không ít thì nhiều, cũng bị ảnh hưởng bởi sự tranh chấp phe nhóm của các thế hệ đàng anh.

Mẩu số chung của ba nhóm trên là họ còn tha thiết đến Việt Nam. Nếu thoạt nhìn, chúng ta nghĩ là họ có nhiều mâu thuẩn và có khi còn đối chọi với nhau. Nhưng dưới cái nhìn lạc quan thì giữa các nhóm chỉ có khoảng cách trong tư tưởng và hành động. Những chỗ trống này có thể và cần phải được lấp đầy để họ có thể đoàn kết, sánh vai làm việc với nhau.

Muốn được vậy chúng ta cần có một kế hoạch toàn diện, các bạn trẻ cần nhận thức được là sự phát triển kinh tế tự nó không đem đến tự do dân chủ. Vì vậy, các bạn cần có cơ hội thảo luận để hiểu nhau và tìm ra được các yếu tố thuận lợi đưa đến dân chủ cho Việt Nam. Và kế đến là làm sao phát huy được các yếu tố này.

Các bạn sẽ nhận thấy việc tranh đấu cho Việt Nam được dân chủ là một hành trình leo núi dài, gian nan, và cần nhiều sức bền bỉ. Các phương pháp vận động của các nhóm, tuy khác nhau, nhưng nó cũng như nhiều đường mòn lên núi, đều đưa đến một đỉnh duy nhất. Chỉ khi nào các bạn nhận ra và đồng ý với nhau về một mục đích chung, hiểu và thông cảm (tuy không nhất thiết phải đồng ý) đường lối làm việc của nhau, thì các bạn ấy mới tránh được sự chia rẽ, đánh phá, hoặc đội những cái mũ “Thiên tả, thiên hữu, hoặc hòa hợp, hoà giải” cho nhau.

Nếu không được vậy, thì chúng ta chỉ còn tin vào niềm hy vọng. Hy vọng các bạn sẽ không bị chia rẽ, hy vọng lòng yêu nước của các bạn sẽ không bị nguội lạnh, hy vọng các bạn sẽ không bị mất gốc, hy vọng rồi đây chúng ta sẽ thành công trong việc tranh đấu đòi dân chủ, tự do thật sự cho người dân Việt.

Tuy nhiên, chắc bất cứ ai trong chúng ta đều đồng ý, hy vọng không phải là một kế hoạch đưa đến thành công.


Hà Tam Anh

Khong Giao va Gia Tri A Chau

Tôi chỉ làm việc ở Seoul hai tuần nhưng được chứng kiến đến 5 cuộc biểu tình! Cứ 2, 3 ngày lại có một cuộc biểu tình. Họ chống đủ thứ: chống nhập cảng gạo từ Tàu, chống Bắc Hàn, chống Nhật. Khi chánh phủ làm luật thi lấy bằng buôn bán địa ốc khó quá, họ cũng chống. Đòi thi lại!

Nam Hàn là một nước nặng tinh thần Khổng giáo. Họ lại có niềm tự hào dân tộc khá mạnh, và rất gắn bó với gia đình. Đây là ba yếu tố được các nhà xã hội học gộp chung lại và đặt cho một cái tên khá kêu: “Giá trị Á châu” - một giá trị thường được dẫn chứng rằng không thích hợp cho sự phát triển của nền dân chủ, tự do.

Những quốc gia được (hay là bị?) ảnh hưởng của Giá trị Á châu phải kể tới là: Trung Hoa, Đài Loan, Việt Nam, Singapore, Nam Hàn, Bắc Hàn, và Nhật. Trong số 7 nước này thì Nhật, Nam Hàn, và Đài Loan được kể là có dân chủ, trong lúc Bắc Hàn, Trung Hoa, Việt Nam, và Singapore thì bị liệt kê là độc tài.[1] Như vậy, với tỉ số 3/7, chúng ta có thể kết luận gì về sự tương quan giữa “Giá trị Á châu”, Khổng giáo và nền tự do dân chủ?

Giáo Sư Samuel Huntington trong bài “Xung đột của các nền văn hóa và sự tái lập trật tự thế giới” tuyên bố rằng: “Truyền thống của Khổng giáo, vì nó đặt nặng uy quyền, trật tự, lề lớp, và quyền lợi của số đông trên số ít, thường tạo nhiều cản trở cho tiến trình dân chủ hóa.”[2]

Ông Lý Quang Diệu cũng dùng lý luận này khi du thuyết khắp nơi. Ông cho rằng nền dân chủ Tây phương sẽ làm cho nền kinh tế trì trệ và tạo bất ổn chính trị tại Á châu. Vì vậy, Á châu phải có một nền dân chủ riêng của nó – một nền dân chủ giới hạn, cứng rắn hơn của Tây Âu. Hay nói một cách khác, ông đề nghị thay dân chủ “cứng” bằng độc tài “mềm”. Thật ra thì ông Lý Quang Diệu chỉ dùng Giá trị Á châu để làm một cái cớ chống lại sự xâm lấn của nền văn hóa Tây phương mà thôi. Chả vậy mà có lần ông đã phạm freudian slip khi cãi rằng: “Singapore không phải là một tiểu bang xa của Mỹ”.[3] Ông đã không đưa ra được một bằng chứng nào cho giả thuyết Giá trị Á châu không thích hợp cho tự do, dân chủ cả.

Tuy không viết vào cuốn tự điển nào cái định nghĩa của “độc tài mềm”, ông Lý Quang Diệu cho rằng nền dân chủ Á châu phải dựa trên sự đồng lòng, nhất trí, và tin tưởng vào một chánh phủ “tốt”. Một chánh phủ “tốt” phải có đạo đức, biết lo cho dân có cơm ăn, áo mặc, giữ gìn trật tự xã hội, và thuần phong, mỹ tục.

Đồng ý tất! Nhưng vấn đề ở đây là dân chủ Á châu nó khác dân chủ Tây Âu chỗ nào? Có thật là các Giá trị Á châu và Khổng giáo không thích hợp cho tự do dân chủ và dân quyền - bất kể Âu hay Á - không?

Truớc khi ta tìm câu trả lời, xin hảy khảo sát câu hỏi. Khi người ta đặt vấn đề là Giá trị Á châu và Khổng giáo có thích hợp với dân chủ, tự do, và dân quyền hay không thì họ đã đưa ra cái giả thuyết là Giá trị Á châu và Khổng giáo tự nó đã không có phần dân chủ, tự do rồi. Không lẽ dân Á châu lạc hậu vậy sao? Như vậy tại sao Nhật, Nam Hàn, Đài Loan (xin được gọi vắn tắt là “Tam Quốc Tự”[4]) có tự do dân chủ. Không lẽ dân của 3 nước này tiến bộ hơn dân của 4 nước Trung Hoa, Việt Nam, Bắc Hàn và Singapore? (xin được gọi vắn tắt là “Tứ Quốc Độc”.[5])

Chánh phủ “tốt” phải biết lo cho dân có cơm no, áo ấm ư? Không những “Tam Quốc Tự” đã thành các con hổ kinh tế, họ còn có một chánh phủ vững chắc được xây dựng trên nền dân chủ khá hoàn hảo với các cuộc bầu cử thường xuyên, pháp quyền rõ rệt, và xã hội dân sự phát triển mạnh.

Tuy vậy, nhìn một cách khách quan thì ít người có thể kết luận được là có một sự tương quan mật thiết giữa nền dân chủ tự do và sự phát triển kinh tế. Chúng ta cũng không thể nói rằng Trung Hoa phát triển kinh tế nhanh hơn Ấn Độ, Nga, và Jamaica nhờ chế độ độc tài. Cái bẫy dễ mắc ở đây là ta nhìn vào hiện tại để rút kết luận từ thành quả đạt được trong quá khứ.

Vì trong cái lý luận này đã có cái sai. Trung Hoa chỉ phát triển sau khi họ từ bỏ nền kinh tế tập trung. Không có gì xác minh rằng các chế độ độc tài, với sự đàn áp nhân quyền, có thể đem lại sự tiến triển kinh tế một cách lâu dài. Ta không nên chỉ dựa vào các thống kê trong một vài năm gần đây mà cần quan sát quá trình phát triển lâu dài của cả thế giới.

Thật vậy, công nghiệp tuy thường bắt đầu từ trong các xã hội có chế độ độc tài, nhưng rốt cuộc cũng phải đi song song với dân chủ nếu không muốn bị tắc nghẽn. Nga Sô và các nước cộng sản Đông Âu rồi cũng sụp đổ khi chịu không nổi sức ép của tự do. Trường hợp này đã xảy ra ở các nước như Nam Phi và Nam Dương. Vì vậy sự phát triển kinh tế của Trung Hoa và Việt Nam có tính cách tạm thời, chỉ có hiệu quả trong giai đoạn chuyển tiếp khi thay đổi chánh sách từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường.

Nhờ chọn nền kinh tế thị trường của Tây Âu nên Singapore mới phát triển nhanh chóng. Với dân số chỉ hơn 4.3 triệu trên diện tích chưa đầy 700 km2, Singapore giống một thành phố lớn hơn là một quốc gia[6]. Vì vậy, cho dù rất muốn, các nước độc tài Á châu cũng dư biết rằng họ không thể áp dụng mô hình độc đảng của Singapore trên nước mình.

Trong thời đại toàn cầu hóa hiện tại, Singapore sẽ phải tiếp tục đương đầu với các luồng sóng tự do thông tin và không thể không chọn tự do dân chủ nếu muốn tiếp tục cạnh tranh với các quốc gia trên thế giới.

Như vậy thì yếu tố nào có lợi cho nền phát triển kinh tế lâu dài?

Qua các nghiên cứu, các kinh tế gia đã đi đến một quan sát chung là muốn tiếp tục cho kinh tế phát triển cần phải có cạnh tranh tự do, phải chú trọng vào thị trường quốc tế, và nền dân trí phải được nâng cao.

Những yếu tố này tuyệt đối không đi ngược lại các đặc tính của tự do dân chủ. Nó lại càng không có liên quan gì đến Giá trị Á châu và tinh thần Khổng giáo.

Hay là Khổng giáo có nhiều tính chất độc đoán hơn các nền văn hóa khác? Khổng giáo có quá khắt khe so với Cơ Đốc giáo hoặc Hồi giáo không?

Có lẽ câu hỏi thích hợp hơn là: những điều kiện, yếu tố thích hợp cho tự do dân chủ có thiếu trong tinh thần Khổng giáo không? Có thật là lý tưởng tự do và nhân quyền trong một xã hội khoan dung là ý niệm Tây Âu và, vì một lý do gì đó, rất xa lạ với Khổng giáo không?

Tuy câu “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” thường được nghe trong các truyện Tàu, Khổng giáo không xem thường và bắt dân đen phải tuyệt đối trung thành với vua. Ngược lại Khổng giáo từ xưa đã đặt ý dân trên tất cả - “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”- “Ý dân là ý Trời"…

Không những vậy, Khổng giáo lại có một yếu tố rất thuận lợi cho nền dân chủ. Khổng giáo chú trọng việc học (Nhất sĩ, nhì nông, tam công, tứ thương). Học vấn là yếu tố quan trọng để nâng cao dân trí, và tạo thêm thành phần trí thức. Tuy dân trí ít được nêu ra như một điều kiện cho sự phát triển dân chủ, học vấn giúp người dân thêm sự hiểu biết để tham gia các cuộc thảo luận chánh trị. Vả lại, chỉ khi người dân không phải lo chạy cơm hàng ngày, họ mới có được thời giờ (và sức lực) để đòi hỏi thêm quyền tự trị. Thành phần trí thức này giúp tạo nên nên một xã hội dân sự cần thiết cho nền dân chủ, tự do.

Các nước trong “Tứ Quốc Độc” không phải là không biết vấn đề then chốt đó. Vì vậy họ lúng túng, không biết làm sao phát triển dân trí để theo kịp kinh tế mà vẫn giữ được quyền độc đảng. Một mặt thì họ cho lớp trẻ đi “tu nghiệp”, một mặt thì họ dựng “tường lửa” để phòng “cháy tư tưởng Đảng và nhà nước.”

Hồ Chí Minh nói: “Khó trăm lần, không dân cũng chịu, khó vạn lần, dân liệu cũng xong". Nhưng Đảng Cộng sản đặt mình trên cả dân vì họ cho là họ “anh minh, sáng suốt” hơn dân. Họ bảo rằng dân không biết rõ, chỉ có Đảng mới biết rõ. Vì vậy “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” nhưng chỉ có Đảng Cộng sản và nhà nước lãnh đạo là có quyền tối hậu quyết định mọi vấn đề. Chỉ có Đảng mới lo được cho toàn dân ấm no, chỉ có Đảng mới giữ gìn được tôn ti, trật tự. Chỉ có Đảng mới bảo đảm được quyền lợi chung cho toàn dân.

Bà Aung San Suu Kyi một lần đã đặt câu hỏi mỉa mai: “Hay là dân tôi thiếu khả năng tiếp nhận nền dân chủ; và vì vậy, cần phải trải qua một thời gian bất hạn định trước khi thật sự có tự do dân chủ?”[7]

Vậy có phải Khổng giáo và Giá trị Á châu đã làm dân tôi ngu đần không?

Đầu Xuân Ất Dậu


[1] Reporters Without Borders, web site http://www.rsf.org/article.php3?id_article=11715
[2] Sammuel P. Huntington, The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order (New York: Touchstone, 1996)
[3] Amartya Sen, Human Rights and Asian Values: What Lee Kuan Yew and Le Peng don't understand about Asia.
[4] Tam Quốc Tự = 3 nước tự do.
[5] Tứ Quốc Độc = 4 nước độc tài
[6] CIA factbook, http://www.cia.gov/cia/publications/factbook/geos/sn.html
[7] Aung San Suu Kyi, Transcending the Clash of Cultures